Từ khoảng một thập niên trở lại
đây, mặc dù lâm vào những bất ổn về kinh tế, chính trị, Hoa Kỳ vẫn là miền đất
hứa đối với những người có tiềm lực tài chính trên khắp thế giới. Theo nguyên
lý cung – cầu, những dự án đầu tư EB5 để lấy thẻ xanh mỹ, những trung tâm vùng
(regional center - TTV) cũng theo đó mọc lên hàng loạt. Cho đến thời điểm hiện
tại, dự án nổi tiếng và được nhắc đến nhiều nhất là South Dakota, dự án này là
một ví dụ điển hình về sự liên kết giữa các nhà chức trách của tiểu bang và
TTV, với lời hứa hẹn bảo đảm cho nguồn vốn của các nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài
và sự yếu kém trong công tác kiểm tra, giám sát.
Giám đốc Wang Limin, chủ tịch dự
án South Dakota Joop Bollen , cựu Bộ trưởng Nội các và Giám đốc Du lịch và Phát
triển nhà nước Richard Benda trước khi đáp một chuyến bay đến Bắc Kinh. Từng là
một trong những dự án được ưa chuộng nhất của các NĐT và các luật sư Di trú bởi
sự hậu thuẫn của chính quyền bang, dự án South Dakota đã dễ dàng tăng thêm vốn
đến 90% so với dự kiến.
Chương trình bắt đầu dưới hình thức
là một trang trại bò sữa với sự kết hợp vốn của một số nhà đầu tư châu Âu và
châu Á. Trong một thời gian ngắn, để cạnh tranh với các dự án của một số TTV nổi
tiếng khác, chương trình đã lan rộng ra với quy mô lớn và huy động nguồn tiền
khổng lồ từ các NĐT chủ yếu đến từ Hàn Quốc và Trung Quốc.
Vào ngày 23 và 24/8/2012, ông
Bollen – Chủ tịch của dự án South Dakota nhận được văn bản chính thức của các
luật sư, yêu cầu cung cấp “các bước tiến hành để tạo ra số lượng công việc tối
thiểu theo quy định của Sở Di Trú Hoa Kỳ”.Ngay sau đó, vào ngày 29/8/2012, tại
Văn phòng phát triển kinh tế của Thống đốc đã ban hành một “Hiệp định kiểm soát tài khoản” nhằm hạn
chế quyền truy cập vào các tài khoản dự án của ông Bollen . Việc Nhà nước can
thiệp sâu sắc vào hoạt động của một nhà thầu tư nhân như thế được xem là “một
hành động phi thường”.
Những dự án đầu tư EB5 để lấy thẻ xanh mỹ mọc lên hàng loạt |
Sự thăng trầm của dự án South Dakota phần nào phản ánh về những rủi ro mà các NĐT EB5 phải gánh chịu khi lựa chọn một dự án để đầu tư và số tiền vốn của mình được sử dụng bởi một bên thứ ba và quyền sở hữu vốn không được đảm bảo. Từ đó dẫn đến nhu cầu tự kiểm soát nguồn vốn và quyền sở hữu toàn bộ dự án được đặt ra ở mức độ ưu tiên. NĐT có thể biết những thông tin sau: Đầu tư trực tiếp, không thông qua các Regional Center; Sở hữu 100% vốn nhà hàng Fatburger; Tự quản lý vốn trong quá trình xây dựng; Tự quyết định 10 công việc để lấy Thẻ xanh vĩnh viễn; Tự quyết định cơ hội bảo toàn vốn.
Sự thăng trầm của dự án South Dakota phần nào phản ánh về những rủi ro mà các NĐT EB5 phải gánh chịu |
Trong mấy năm gần đây, thông tin
về chương trình đầu tư định cư EB-5 đã bắt đầu phổ cập. Điều luật về chương
trình EB-5 thoạt nghe rất đơn giản: trong vòng 02 năm liên tục, với số vốn tối
thiểu 500.000 USD từ nguồn thu nhập hợp pháp, tạo ra được 10 công việc làm toàn
thời gian cho người dân Mỹ. Tuy vậy, để đáp ứng yêu cầu này trên thực tế không
hề dễ dàng.
Sau nhiều tháng nghiên cứu các dự
án EB-5 bị thất bại tại Mỹ, rào cản lớn nhất trong
việc NĐT đáp ứng được điều kiện tạo ra đủ số việc làm và bảo toàn vốn chính là
quyền sở hữu dự án đầu tư.
Hiện nay, hầu hết các dự án EB5
trên thị trường đều có quy mô lớn, cần hàng chục đến hàng trăm nhà đầu tư (NĐT)
tham gia. Tuy nhiên, đại cổ đông có quyền ra quyết định đến tất cả hoạt động
kinh doanh chính là các công ty phát triển dự án, các Trung tâm vùng (Regional
Center)
Sau nhiều tháng các dự án EB5 bị thất bại tại Mỹ, rào cản lớn nhất trong việc NĐT đáp ứng được điều kiện |
Các dự án EB5 về bản chất cũng là một dự án đầu tư để kinh doanh. Tuy nhiên, trong khi mục đích lớn nhất của đại đa số các NĐT tham gia là để xóa bỏ điều kiện trên thẻ xanh sau 02 năm đầu tư thì với các đại cổ đông , mục đích lớn nhất là để sinh ra lợi nhuận.
Tất cả những ai từng kinh doanh đều
biết rằng, một trong những yếu tố để sinh ra lợi nhuận chính là tiết giảm chi
phí nhân công đến mức tối đa. Có nghĩa là, nếu hoạt động thật lý tưởng theo kế
hoạch ban đầu, dự án có thể sinh ra ngay lợi nhuận, tạo hàng ngàn công việc
ngay lập tức khi khánh thành. Ngược lại, nếu việc kinh doanh không thuận lợi, sẽ
thật khó để thuyết phục các đại cổ đông thuê một lực lượng nhân công thừa thãi
chỉ để đáp ứng việc xóa bỏ điều kiện thẻ xanh cho các NĐT nước ngoài.
Điều này giải thích vì sao theo số
liệu do Sở di trú Hoa Kỳ công bố những năm vừa qua, có sự chênh lệch giữa lượng
hồ sơ xin xóa điều kiện thẻ xanh và lượng hồ sơ được chấp thuận.
Với hình thức đầu tư trực tiếp
vào nhà hàng Fatburger, trao cho các NĐT EB-5 Việt Nam cơ hội sở
hữu 100% dự án, vì tổng chi phí xây dựng và đưa vào hoạt động một nhà hàng
Fatburger chỉ là 500.000 USD. Không có sự hiện diện của bất cứ một cổ đông nào,
NĐT toàn quyền quyết định về chi phí kinh doanh cũng như số nhân công được thuê,
không có sự chia sẻ về số lượng việc làm với bất kỳ ai, NĐT có được sự an toàn
để lấy thẻ xanh vĩnh viễn .
Nhà hàng thức ăn nhanh Fatburger
đầu tiên hoạt động vào năm 1947 ở Los Angeles, California. Đến nay, tập đoàn đã
phát triển hơn 150 cửa hàng nhượng quyền trên khắp thế giới. Trong năm nay, sẽ
có 30 cửa hàng ở miền Nam bang California được mở ở Quận Crenshaw, Beverly
Hill, Lake View Terrace và Koreatown. Tất cả những địa điểm mới đều liên kết
thương hiệu với Buffalo Express, như chắp thêm cánh cho việc phát triển kinh
doanh.
|
Duy trì hoạt động 24/7, các nhà
hàng Fatburger đòi hỏi số lượng từ 16 đến 21 nhân viên cho 3 ca làm việc, đáp ứng
từ 150% đến 200% số lượng Sở Di trú yêu cầu. Hơn nữa, với quyền sở hữu 100% vốn,
các NĐT hoàn toàn có thể thuê thêm nhân công nếu cần thiết.
Là một thương hiệu đã phát triển
lâu năm, mỗi nhà hàng Fatburger tuân theo những nguyên tắc đã có sẵn, như chất
lượng phục vụ, diện tích bãi giữ xe, mật độ dân cư qua lại, quy trình chế biến,
quy trình kiểm tra hoạt động kinh doanh….tất cả tạo thành một công thức thành
công để đem lại lợi nhuận. Theo số liệu năm 2013, lợi nhuận sinh ra từ một nhà
hàng ở Las Vegas trong một năm là 6 triệu USD, gấp 12 lần mong đợi số bảo toàn
vốn đầu tư là 500.000 USD.
EmoticonEmoticon