Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2017

Tại sao xin visa Mỹ diện hôn thê-hôn phu không thành công

Tags

Tại sao xin visa Mỹ diện hôn thê-hôn phu không thành công
Xin visa Mỹ diện hôn thê-hôn phu hoặc diện vợ chồng ở Việt Nam khó hơn ở các nước khác. Tiêu chuẩn mà nhân viên lãnh sự ở Tổng Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam áp dụng khá cao.
Họ mong rằng người bảo lãnh phải đi đi về về nhiều lần, có sự cam kết lâu dài và có khả năng liên lạc tốt với hôn thê-hôn phu hoặc người phối ngẫu của mình nếu hai người không cùng ngôn ngữ. Ngoài ra, họ cũng nghĩ rằng tất cả người bảo lãnh phải tổ chức một bữa tiệc đính hôn lớn theo thủ tục, nhưng không phải trong chuyến về đầu tiên.

Tại sao LSQ lại từ chối đơn xin visa Mỹ diện hôn thê-hôn phu?
– Hình nộp làm bằng chứng quan hệ cho thấy người bảo lãnh và hôn thê-hôn phu chỉ ở chung với nhau bốn hoặc năm ngày. (Đó “mật mã” của họ. Điều này có nghĩa rằng chỉ có một chuyến đi thì không có visa Mỹ. Nếu chỉ có một chuyến về Việt Nam, số hình ảnh mà bạn nộp không quan trọng đối với họ).
Không phải những cặp vợ chồng nào kết hôn ngay lần đầu tiên gặp gỡ cũng bị từ chối visa Mỹ. Nếu họ có con sau khi kết hôn thì khả năng được cấp visa Mỹ sẽ rất cao, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt: như quan hệ khai ra không liên tục và không đang xảy ra. Thí dụ, người bảo lãnh không về thăm hôn thê/hôn phu của họ trong vòng một năm.
– Người hôn thê-hôn phu nộp bằng chứng chỉ có nghi lễ đính hôn nhỏ, không quan trọng và không có một người khách nào ở Hoa Kỳ tham dự. Điều này trái với những chuẩn mực xã hội và tiêu chuẩn văn hóa địa phương theo đó nhiều thành viên gia đình và bạn bè được mời, kể cả những người ở Hoa Kỳ, được mời dự lể đính hôn, lên đến cả trăm người ngay cả trong những gia đình với phương tiện phải chăng. Trái với những chuẩn mực xã hội và văn hóa Việt Nam đòi hỏi một thời gian chuẩn bị trước hôn nhân lâu dài và thận trọng, người bảo lãnh và hôn thê/hôn phu đính ước với nhau trước khi gặp mặt nhau. Tiến trình quan hệ khai ra của người thừa hưởng không đáng tin: Thí dụ, người hôn phu/hôn thê không nhớ thời điểm người bảo lãnh cầu hôn. Người hôn thê/hôn phu không có những hiểu căn bản về nơi ở và/hay quê hương của người bảo lãnh (điểm đặc trưng, đặc thù, v.v…).
Thí dụ, người hôn thê/hôn phu không biết nơi người bảo lãnh sống từ hai năm nay. Người hôn thê/hôn phu không biết rõ kế hoạch đám cưới, nhà thờ nào, hay tòa án nào, khi nào tổ chức đám cưới. Sau đây là danh sách những yếu tố mà nhân viên lãnh sự dựa vào đó để quyết định rằng hai người kết hôn nhằm qua mặt luât di trú:
– Sự việc diễn biễn nhanh chóng (kết hôn, ly hôn, v.v…).
– Khoảng cách tuổi – cách nhau từ 10 tuổi trở đi.
– Những cuộc hôn nhân trước của người bảo lãnh với người nước ngoài hay của người được bảo lãnh với công dân Mỹ hoặc thường trú nhân Mỹ. Nếu bạn đã kết hôn và bảo lãnh một người trước đó, bạn phải viết tờ tường trình và nộp bằng chứng chứng minh hôn nhân trước của bạn là thật.
– Hôn nhân khác chủng tộc, khác tôn giáo và nhất là khác ngôn ngữ. Nếu bạn quen một người chỉ nói tiếng Anh thì bạn nên đăng ký học tiếng Anh cho giỏi để tránh bị nghi ngờ khi nhân viên lãnh sự thấy bạn yếu tiếng Anh trog cuộc phỏng vấn.

Nếu những vấn đề trên áp dụng cho trường hợp của bạn, bạn phải giải quyết vấn đề trước khi nộp đơn bảo lãnh để có thể thành công. Bạn phải nộp những giấy tờ hỗ trợ để chứng minh một cách mà không ai có thể bác được. Nhiều người bảo lãnh đi đi về về nhiều lần và tổ chức tiệc đính hôn hay tiệc cưới sau khi đã nộp đơn xin bảo lãnh diện hôn thê-hôn phu hay diện vợ chồng, và đem bằng chứng về những chuyến đi, v.v… đến buổi phỏng vấn của người hôn thê/hôn phu hay người phối ngẫu ở Tổng Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ. 


EmoticonEmoticon